Hoạt động xuất nhập cảnh tại cửa khẩu Quốc tế Lào Cai
Khi đường biên là kế sinh nhai
Dọc theo tuyến biên giới Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào hay Việt Nam – Campuchia, không khó để bắt gặp những phiên chợ tạm, điểm giao thương nhỏ lẻ mà cư dân bản địa tận dụng để mưu sinh. Với người dân ở Móng Cái (Quảng Ninh), Tịnh Biên (An Giang) hay Cửa khẩu Lào Cai, việc “vác hàng thuê”, chuyển hàng qua biên giới không chỉ là công việc mà còn là nguồn thu nhập gần như duy nhất trong nhiều năm.
Trong nhiều vụ việc được điều tra, lực lượng chức năng phát hiện không ít trường hợp người dân “được thuê” vận chuyển hàng lậu – từ thuốc lá, rượu ngoại, đến linh kiện điện tử, thậm chí là dược liệu nhập lậu – với tiền công chỉ vài chục nghìn đồng mỗi chuyến. Họ không trực tiếp biết rõ nguồn gốc, cũng không được hưởng lợi đáng kể, nhưng lại phải đối mặt với rủi ro pháp lý lớn.
Vấn đề đặt ra là: chính sách chống buôn lậu có đang trừng phạt những mắt xích yếu thế trong chuỗi buôn lậu mà bỏ qua các đầu mối thực sự?
Vùng trũng chính sách và những khoảng trống sinh kế
Trong các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội vùng biên, sinh kế bền vững cho cư dân biên giới nhiều năm qua vẫn chỉ được nhắc đến trên giấy. Không ít chương trình hỗ trợ sản xuất, chuyển đổi nghề, xây dựng HTX vùng biên... bị đánh giá là thiếu thực chất, không gắn với đặc thù địa phương.
Điển hình như tại các xã biên giới tỉnh Cao Bằng và Hà Giang, nhiều dự án hỗ trợ sản xuất bị dàn trải, thiếu đầu ra, khiến người dân sau vài năm lại quay về với nghề cũ. Một số hộ từng tham gia chương trình trồng cây dược liệu thay thế vận chuyển hàng thuê cho biết: “Trồng thì được, nhưng bán đi đâu, giá thế nào thì không ai hỗ trợ”.
Hệ quả là, khi thiếu lựa chọn sinh kế, người dân sẽ buộc phải chấp nhận rủi ro để kiếm sống – vô hình chung làm “chỗ dựa” cho các đường dây buôn lậu xuyên biên giới.
Chính sách chống buôn lậu: Liệu có quá tập trung vào biện pháp cưỡng chế?
Hiện nay, chính sách phòng chống buôn lậu phần lớn vẫn dựa vào cơ chế kiểm soát – xử lý, tập trung vào lực lượng chức năng như biên phòng, hải quan, công an kinh tế... Trong khi đó, vai trò của cộng đồng địa phương – những người gần gũi nhất với địa bàn – lại chưa được phát huy đúng mức.
Việc vận động nhân dân “tố giác tội phạm”, tham gia giữ gìn an ninh biên giới vẫn mang tính hình thức, thiếu cơ chế bảo vệ và hỗ trợ cho người tố giác. Trong nhiều trường hợp, người dân thậm chí e ngại chính quyền hơn cả đối tượng buôn lậu, bởi nếu tố cáo không thành, họ có thể bị trả thù – mà không có bất cứ hệ thống bảo vệ nào hiệu quả.
Từ “tác nhân bị động” thành “đồng minh chủ động”
Để chống buôn lậu thực chất và bền vững, cần thay đổi tư duy: không chỉ coi người dân là đối tượng được kiểm soát, mà là lực lượng cần được trao quyền, hỗ trợ và tham gia hoạch định chính sách.
Một số mô hình điểm ở Tây Ninh, Quảng Trị đã thí điểm tổ chức “Tổ tự quản vùng biên”, kết hợp lực lượng dân cư và chính quyền địa phương trong việc giám sát vận chuyển, phát hiện hàng hóa bất thường. Tuy nhiên, các mô hình này vẫn chưa được nhân rộng, thiếu nguồn lực và không gắn liền với cải thiện đời sống thực chất cho người dân.
Điều cần làm hiện nay không chỉ là “ngăn chặn” buôn lậu mà còn phải “cắt đứt” mối quan hệ giữa buôn lậu và sinh kế cộng đồng, thông qua các chính sách phát triển sản xuất, thương mại biên mậu hợp pháp, kết nối thị trường và đầu tư hạ tầng vùng sâu vùng xa.
Không có “biên giới sạch” nếu còn “vùng trũng” sinh kế
Không ai sinh ra đã muốn làm người vận chuyển hàng lậu. Họ làm vì không còn lựa chọn nào khác. Nếu muốn dẹp tận gốc buôn lậu, thì ngoài việc xử lý đầu nậu, phải nghiêm túc rà soát lại chính sách hỗ trợ cư dân vùng biên. Cần hành động từ gốc: tạo sinh kế – xây niềm tin – trao vai trò, để người dân không còn là mắt xích yếu thế trong chuỗi buôn lậu, mà trở thành đối tác thực sự của nhà nước trong việc giữ gìn chủ quyền và an ninh kinh tế nơi biên giới.
Lam Giang