Thương mại biên giới từ lâu đã đóng vai trò như một động lực quan trọng đối với kinh tế vùng và chiến lược hội nhập quốc tế của Việt Nam. Trên suốt chiều dài hơn 5.000 km đường biên giới tiếp giáp với Trung Quốc, Lào và Campuchia, các hoạt động xuất nhập khẩu qua cửa khẩu dù là chính ngạch hay tiểu ngạch đều có ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng khu vực, thu ngân sách, ổn định thị trường nội địa và cả an ninh kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, trong suốt hai thập kỷ qua, ranh giới giữa chính ngạch và tiểu ngạch đang ngày càng trở nên mong manh, khi nhiều đối tượng tìm cách khai thác lỗ hổng pháp lý, sử dụng tiểu ngạch như “con đường thứ hai” để đưa hàng hóa vào thị trường trong nước mà không chịu sự kiểm soát đầy đủ từ cơ quan chức năng.
Ranh giới pháp lý giữa chính ngạch và tiểu ngạch, vốn được quy định khá rõ ràng trên giấy tờ, trên thực tế lại rất khó xác lập ở cấp hiện trường. (Ảnh: Minh họa)
Thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu biên giới đất liền năm 2023 đạt xấp xỉ 56 tỷ USD, trong đó khoảng 35% đến từ hình thức thương mại biên giới cư dân tức các giao dịch có quy mô nhỏ, thường xuyên, do người dân địa phương thực hiện qua hình thức miễn thuế trong mức quy định. Đây là chính sách được thiết kế nhằm hỗ trợ cư dân biên giới vốn sinh sống tại các khu vực đặc biệt khó khăn được phép mua bán, trao đổi hàng hóa với cư dân nước láng giềng với mức miễn thuế không quá 2 triệu đồng/người/lượt/ngày, theo Nghị định 14/2018/NĐ-CP. Thế nhưng, chính cơ chế nhân văn này lại đang trở thành lỗ hổng lớn bị một bộ phận thương nhân, doanh nghiệp lợi dụng để tuồn hàng lậu, hàng không rõ nguồn gốc, hoặc hàng trốn thuế qua biên giới.
Không khó để bắt gặp hình ảnh hàng chục người dân địa phương xếp hàng tại cửa khẩu Tân Thanh (Lạng Sơn) hay Móng Cái (Quảng Ninh), mỗi người mang vác vài bao tải, va-li hàng trị giá dưới 2 triệu đồng, đi qua đi lại hàng chục lượt trong ngày. Trên thực tế, đây là “đội quân thuê vác” do các thương lái tổ chức, chia nhỏ hàng lô thành hàng trăm lô nhỏ, lợi dụng quy định cư dân biên giới để hợp thức hóa việc vận chuyển hàng hóa có giá trị lớn mà không cần khai báo chính ngạch. Số liệu từ Ban Chỉ đạo 389 quốc gia cho thấy, trong năm 2022 và 2023, lực lượng hải quan đã xử lý hơn 6.200 vụ vi phạm thương mại biên giới có liên quan đến gian lận tiểu ngạch, với tổng giá trị hàng hóa vi phạm lên tới hơn 900 tỷ đồng. Đây chỉ là con số bề nổi.
Hình ảnh "cửu vạn vali tại cửa khẩu Quốc tế Lào Cai" do Báo Nông nghiệp và môi trường tác nghiệp T5/2025 (Ảnh cắt từ clip)
Nhiều "Cư dân biên giới" lợi dụng vào chính sách miễn thuế để mỗi ngày qua lại hàng chục lượt nhằm mục đích khuân vác hàng thuê (Ảnh: Báo NN&MT)
Một số mặt hàng nhạy cảm thường xuyên bị lợi dụng luồng tiểu ngạch để thâm nhập thị trường bao gồm: hàng tiêu dùng Trung Quốc kém chất lượng, mỹ phẩm không rõ nguồn gốc, thực phẩm nông sản chưa qua kiểm dịch, hàng điện tử cũ, đường cát, rượu bia và cả thuốc lá lậu. Trong một vụ điển hình tại khu vực cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh (Gia Lai) năm 2023, cơ quan chức năng đã phát hiện hơn 50 tấn đường được ngụy trang dưới dạng "hàng cư dân biên giới", sau khi phân tích đã chứng minh toàn bộ số hàng có xuất xứ từ Thái Lan, nhập qua Campuchia, rồi vận chuyển tiểu ngạch vào Việt Nam để tránh thuế nhập khẩu 5% và thuế GTGT 10%.
Trong khi đó, các doanh nghiệp làm ăn bài bản theo hình thức chính ngạch lại đang gặp phải không ít trở ngại. Thủ tục hải quan, kiểm dịch, truy xuất nguồn gốc, chi phí kiểm định chất lượng... khiến chi phí logistics đội lên đáng kể, thời gian thông quan bị kéo dài. Không ít doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ đã phải rút lui khỏi chính ngạch, hoặc cắt giảm hoạt động xuất nhập khẩu, nhường chỗ cho các dòng chảy hàng hóa linh hoạt hơn dù tiềm ẩn nhiều rủi ro pháp lý. Một lãnh đạo doanh nghiệp nông sản ở Lạng Sơn chia sẻ: “Chúng tôi đăng ký xuất khẩu chính ngạch thanh long qua Trung Quốc nhưng gặp vướng ở khâu chứng nhận vùng trồng và truy xuất QR. Trong khi đó, các thương lái xuất khẩu tiểu ngạch thì chỉ cần gom hàng, đưa lên xe, là hàng đã sang biên giới. Như vậy sao có thể cạnh tranh được?”
Điều đáng lo ngại là, khi dòng chính ngạch bị chặn bởi các rào cản pháp lý hoặc thủ tục, còn dòng tiểu ngạch lại dễ dàng và “rẻ” hơn, thị trường tự khắc sẽ điều tiết theo hướng bất lợi cho minh bạch hóa. Đây là nghịch lý đang tồn tại ở nhiều tỉnh biên giới nơi mà cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, nhân lực quản lý còn mỏng, và công nghệ kiểm soát chưa đủ mạnh để theo kịp diễn biến mới của thị trường.
Ranh giới pháp lý giữa chính ngạch và tiểu ngạch, vốn được quy định khá rõ ràng trên giấy tờ, trên thực tế lại rất khó xác lập ở cấp hiện trường. Các mặt hàng tiểu ngạch thường không bị yêu cầu ghi nhãn mác đầy đủ, không cần khai báo nguồn gốc sản xuất, và việc xác định người vận chuyển có đúng là “cư dân biên giới” hay không lại phụ thuộc vào giấy tờ do địa phương cấp, dẫn đến tình trạng làm giả, mượn tên, thuê mượn giấy tờ cá nhân. Việc này khiến công tác kiểm tra sau thông quan của cơ quan Hải quan gặp nhiều khó khăn, chưa kể đến nguy cơ rửa tiền, hợp thức hóa hàng giả, thậm chí nhập khẩu hàng cấm đội lốt thương mại cư dân.
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào các hiệp định thương mại thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP…, thì việc duy trì một hệ thống thương mại biên giới “nửa chính thức” như hiện nay là không phù hợp. Nó không chỉ gây méo mó thị trường, làm suy yếu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chính danh, mà còn đe dọa tới an ninh kinh tế quốc gia đặc biệt khi xuất hiện xu hướng hợp pháp hóa các mặt hàng có nguồn gốc không minh bạch thông qua các tuyến biên mậu.
Đã đến lúc cần một chiến lược tổng thể để quản lý thương mại biên giới theo hướng tích hợp. Tức là không chỉ giới hạn ở các quy định hành chính, mà phải áp dụng công nghệ số, cơ chế điều phối thông minh và minh bạch dữ liệu. Việc thí điểm ứng dụng hệ thống e-border (biên giới điện tử), số hóa định danh cư dân biên giới, gắn với lịch sử giao dịch và hạn mức luân chuyển, đang được một số địa phương triển khai như Lạng Sơn, Quảng Ninh. Tuy nhiên, nếu không có hành lang pháp lý thống nhất và sự phối hợp liên ngành chặt chẽ, những mô hình này khó có thể nhân rộng.
Bên cạnh đó, cần xem xét việc thu hẹp phạm vi áp dụng tiểu ngạch, hoặc chuyển một phần hoạt động này sang hình thức chính ngạch tối giản nghĩa là đơn giản hóa thủ tục cho các doanh nghiệp nhỏ nhưng vẫn bảo đảm các tiêu chuẩn truy xuất, kiểm định tối thiểu. Nhà nước có thể hỗ trợ cư dân vùng biên thông qua các chính sách an sinh, đào tạo nghề, thay vì duy trì cơ chế miễn thuế tiểu ngạch kéo dài quá lâu mà thiếu kiểm soát.
Thương mại biên giới không chỉ là câu chuyện hàng hóa, mà là câu chuyện về sự hài hòa giữa pháp lý, an sinh, lợi ích địa phương và chiến lược phát triển quốc gia. Nếu không nhanh chóng chuyển hóa mô hình quản lý từ kiểm soát bị động sang điều phối chủ động, Việt Nam có thể bỏ lỡ cơ hội xây dựng một hành lang thương mại biên giới minh bạch, hiệu quả và có khả năng cạnh tranh trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Lam Giang